Khi
Người đến trong vinh quang, Chúa Kitô Vua sẽ xét xử chúng ta về những việc bác
ái chúng ta làm cho tha nhân. (Cha Tony)
1. CHÚA LÀ VUA HIỂN TRỊ
Ở
giữa quảng trường thánh Phêrô ở Rôma, có một đài tháp lớn (obelisk). Có niên
đại khoảng bốn nghìn năm tuổi, ban đầu nó nằm trong ngôi đền mặt trời ở thành
phố Heliopolis của Ai Cập. Nó được Hoàng đế Caligula mua, mang về Rôma và đặt
ngay giữa Hí trường Nêrô, trên đồi Vatican. Chính tại Hí trường đó, thánh Phêrô
đã chịu tử đạo, và tháp tưởng niệm đó có thể là hình ảnh cuối cùng trên trái
đất này ngài nhìn thấy. Trên đỉnh tháp có một cây thánh giá. Tất nhiên vào thời
cổ đại, đó là một quả cầu vàng, tiêu biểu cho mặt trời. Và bây giờ được thay
một cây thánh giá, thánh giá của Chúa Kitô, và trên bệ của đài tháp có khắc hai
dòng chữ. Hàng chữ đầu bằng tiếng Latinh “Christus vincit, Christus regnat, Christus
imperat”, được dịch là: Chúa Kitô chiến thắng, Chúa Kitô hiển trị, Chúa Kitô
vinh quang. Dòng chữ khác là: “Sư tử của Giuđa đã chiến thắng.” Vì vậy, hôm nay
chúng ta nhắc đến ngôn ngữ của chiến thắng. Kitô giáo đã chiến thắng bằng sức
mạnh của thập giá, và chinh phục cả sức mạnh vĩ đại nhất mà thế giới cổ đại
từng biết đến, Đế chế La Mã. Ngày nay ở giữa quảng trường thánh Phêrô là đài
tưởng niệm mang những dòng chữ chiến thắng đó. (Mark Coleridge, Tổng giám mục
Brisbane) (Cha Tony)
2. CÂU CHUYỆN MỘT VỊ VUA
Đây
là câu chuyện cảm động về một vị vua xứ Ailen. Ông không có con nối ngôi, vì
vậy ông quyết định chọn người kế vị trong dân chúng. Điều kiện duy nhất được
đặt ra, như đã được thông báo trên toàn vương quốc, là ứng viên phải có lòng
kính mến Chúa sâu xa và yêu thương người lân cận. Tại một ngôi làng hẻo lánh
của vương quốc, có một thanh niên nghèo nhưng hiền lành; anh được ghi nhận là
có lòng tốt và hay giúp đỡ những người hàng xóm của mình. Dân làng khuyến khích
anh đi thi để làm vua. Họ đã gom góp tiền nong cho anh để anh có thể thực hiện
chuyến hành trình dài đến cung điện nhà vua. Sau khi trang bị cho anh lương
thực cần dùng và một chiếc áo khoác tốt, họ gửi anh lên đường. Khi người thanh
niên đến gần lâu đài, anh để ý thấy một người ăn xin đang ngồi trên một chiếc
ghế dài trong công viên hoàng gia, mặc bộ quần áo rách rưới. Người này đang run
rẩy vì lạnh vì phải ngồi ăn xin ngoài trời. Xúc động và trắc ẩn, người thanh
niên đã mặc cho người ăn xin chiếc áo khoác mới mình đang mặc và trao phần thức
ăn mà anh muốn để dành cho chuyến hành trình trở về. Sau khi đến cung điện và
chờ đợi một lúc khá lâu trong phòng khách của hoàng gia, người thanh niên được
nhận vào để phỏng vấn với nhà vua. Khi ngước mắt lên và sau khi cúi lạy trước
mặt nhà vua, anh vô cùng kinh ngạc khi thấy nhà vua đang mặc chiếc áo khoác mà
anh đã đưa cho người ăn xin ở công viên, đồng thời chào anh với tư cách là vị
vua mới của đất nước.
*
Khi Người đến trong vinh quang, Chúa Kitô Vua sẽ xét xử chúng ta về những việc
bác ái chúng ta làm cho tha nhân. (Cha Tony)
3. CHÚA KITÔ VUA MUÔN NĂM
Trong
những năm 1920, một chế độ toàn trị đã giành được quyền kiểm soát tại đất nước
Mexicô và nó ra sức đàn áp Giáo hội Công giáo. Để chống lại chế độ, nhiều Kitô
hữu đã hô vang khẩu hiệu: “Viva Cristo Rey!” (“Chúa Kitô Vua muôn năm!”) Họ tự
gọi mình là “Cristeros.” Cristero từng rất nổi tiếng, ngài là một linh mục dòng
Tên trẻ tên thật là Padre Miguel Pro. Bằng cách sử dụng nhiều hình thức ngụy
trang khác nhau, Padre Pro đã tận tụy phục vụ người dân nghèo thành phố Mexicô.
Cuối cùng, chính quyền bắt ngài và kết án hành quyết công khai vào ngày 23
tháng 11 năm 1927. Tổng thống Mexicô (Plutarco Calles) nghĩ rằng Padre Pro sẽ
cầu xin lòng thương xót nên đã mời báo chí đến chứng kiến cuộc hành hình. Padre
Pro đã không cầu xin mạng sống cho mình, nhưng thay vào đó, ngài quỳ xuống cầm
một cây thánh giá. Khi cầu nguyện xong, ngài hôn cây thánh giá và đứng thẳng
dậy. Giữ chặt cây thánh giá trong tay phải, ngài mở rộng vòng tay và hô lên:
“Viva Cristo Rey!” (“Chúa Kitô Vua muôn năm!”) Vào chính lúc đó những người
lính đã nổ súng vào ngài. Các nhà báo đã chụp ảnh; nếu bạn tìm kiếm “Padre Pro”
hoặc “Saint Miguel Pro” trên Internet, bạn có thể thấy hình ảnh đó. (Cha Phil
Bloom).
4.TRUNG THẦN PHỤC VỤ NHỊ QUÂN
Thánh
Thomas More là một trong các vị thánh bảo trợ các luật sư và chính trị gia.
Ngài là một luật sư và nhà ngoại giao lỗi lạc ở Anh thế kỷ 16. Lòng yêu nước và
lòng trung thành của ngài với quân vương đã thu hút sự chú ý của vua Henry
VIII, người đã phong ngài làm Chủ tịch Nghị viện Anh. Điều mà Henry VIII không
hay biết là lòng trung thành tuyệt đối của Thomas More đối với Chúa Kitô, Vua
của các vua. Khi Henry VIII quyết định ly hôn với người vợ Catherine thành
Aragon, để kết hôn với Anne Boleyn và tự phong cho mình là người đứng đầu Giáo
hội Anh, thì More cho rằng điều này là hoàn toàn sai trái. Thay vì thuận theo
những gì ngài thấy là trái với ý muốn của Thiên Chúa, Thomas More đã từ bỏ vị
trí Chủ tịch danh giá, giàu có của mình và sống một cuộc sống nghèo khổ. Vì
không ủng hộ nhà vua, Thomas More bị bắt, bị kết tội phản quốc, bị giam ở Tháp
Luân Đôn năm 1534 và bị chặt đầu vào tháng 7 năm sau. Trên đường đi hành quyết
công khai, More khuyến khích mọi người kiên định với Đức tin vào Chúa Kitô.
Những lời cuối cùng được ghi lại của ngài là: “Tôi vì trung nghĩa với vua mà
chịu chết, nhưng trước hết tôi là tôi tớ của Đức Chúa Trời.” Đối với Thomas
More, việc tuyên xưng Chúa Kitô một cách riêng tư trong sự an toàn của cõi lòng
và tại riêng gia đình mình là không đủ. Ngài tin rằng mỗi người còn phải tuyên
xưng Chúa Kitô trong cuộc sống nghề nghiệp cũng như trong các luật lệ và chính
sách chi phối xã hội. (Cha Munacci).
5. PHỤC VỤ ĐỨC VUA
Thánh
Polycarpô, giám mục của Smyrna thế kỷ thứ hai, đã bị điệu ra trước nhà chức
trách La Mã và được yêu cầu nguyền rủa Chúa Kitô thì sẽ được thả. Ngài trả lời:
“Tôi đã phục vụ Người tám mươi sáu năm, Người không làm gì sai trái cả; vậy thì
làm sao tôi có thể phạm thượng chống lại Đức Vua của tôi, Chúa Giêsu Kitô, Đấng
đã cứu tôi?” Viên sĩ quan La Mã trả lời: “Nếu ông không đổi ý, tôi sẽ thiêu
sống ông.” Nhưng Polycarpô nói: “Ngài chỉ đe dọa tôi bằng một ngọn lửa cháy
trong một giờ, và sau đó thì nó sẽ tắt; nhưng các người không biết gì về sự
phán xét sẽ đến và sự trừng phạt đời đời dành cho những kẻ vô đạo. Vậy thì cứ
làm những gì các ngươi muốn.” (Cha Tony)
6.TÔI LÀ NGƯỜI VĨ ĐẠI NHẤT
Chúa
Giêsu không phải là một vị vua như vua Ai Cập cổ đại, Ramses, người có thái độ
kiêu ngạo đã khắc vào các ngôi đền vẫn còn sừng sững: “Ta là người vĩ đại
nhất”. Chúa Giêsu cũng không phải là một vị vua như các vua Trung Hoa, những
bạo chúa man rợ đã sử dụng hàng triệu nô lệ để xây dựng Vạn Lý Trường Thành,
một bức tường khổng lồ đến nỗi người ta có thể nhìn thấy từ mặt trăng. Người
cũng không phải là một vị vua như Louis XIV, kẻ đã sống xa hoa quá mức trong
cung điện Versailles gồm có cả 1000 phòng ốc. Chúa Giêsu khác biệt ở chỗ Người
không được sinh ra từ một vị vua để trị vì, mặc dù Người thuộc hoàng gia Đavít.
Đúng hơn, như Kinh Thánh nói với chúng ta, Chúa Giêsu là Đấng mà Thiên Chúa “sẽ
chọn để làm vua…và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.” Không có vị vua nào
khác như Vua Giêsu, vì Người là một vị Vua thiêng liêng. Không như bất cứ ai
khác Người chính là Con Thiên Chúa, Đấng Messia. Tiên tri Giêrêmia gọi Người là
“Chúa Cứu Thế của chúng ta”. Thánh Phaolô chiêm ngắm Chúa Giêsu là “hình ảnh
của Thiên Chúa vô hình” và, Người là “tất cả sự trọn vẹn của Thiên Chúa.” Chính
Chúa Giêsu biết Người là ai, và thuộc về ai, vì Người nói: “Cha và Tôi là một…
ai thấy Tôi là thấy Chúa Cha.” (Cha Tony)
7. TÌM THẤY HẠNH PHÚC ĐÍCH THẬT
Phanxicô
Assisi thời trẻ giàu có, cao sang và học thức, nhưng anh không cảm thấy hạnh
phúc. Anh luôn nhận thấy cuộc sống của mình không trọn vẹn. Rồi một ngày nọ,
khi đang cưỡi ngựa rong chơi trên đường phố, anh gặp một người bệnh phong, thật
xấu xí và đáng ghê tởm vì căn bệnh ngặt nghèo làm biến dạng khuôn mặt. Có điều
gì đó thôi thúc Phanxicô phải xuống ngựa và vòng tay qua người đau khổ bất hạnh
này. Và trong vòng tay của anh, Phanxicô sửng sốt nhận thấy khuôn mặt của người
bệnh phong đã đổi thành khuôn mặt của Chúa Kitô. (Cha Tony)
8. CHUYỆN NGƯỜI THỢ ĐÓNG GIÀY
Văn
hào Leo Tolstoy kể câu chuyện về một người thợ đóng giày tên là “Martinô cô
đơn”, anh được Chúa hứa đến thăm vào ngày hôm đó. Cả ngày anh háo hức chờ đợi
Ngài xuất hiện. Nhưng tất cả những gì xảy đến là một người đàn ông cần gấp một
đôi giày; một người mẹ trẻ cần thức ăn và nơi ở cho con; và một đứa trẻ cần một
người bạn. Tất cả đều được người thợ cô đơn nhiệt tình vui vẻ giúp đỡ. Martinô
kết thúc một ngày với suy nghĩ: “Có lẽ ngày mai Ngài sẽ đến chăng,” chỉ để nghe
thấy một giọng nói trả lời: “Hôm nay Ta đã đến gặp con, Martinô, không phải một
lần mà là ba lần”. (Cha Tony)
9. CHÚA KITÔ VUA MUÔN NĂM
Chúng
ta luôn được mời gọi cầu nguyện cho Giáo hội thầm lặng, Giáo hội bị bách hại
cách này hay cách khác. Một ngày nọ mọi người trên thế giới đều tỏ lòng thương
tiếc khi biết tin Đức Hồng y Inhaxiô Kung Phần Mai của Giáo hội Trung Quốc qua
đời ở tuổi 98. Ngài đã giữ vững xác tín của mình và chịu sự đàn áp khủng khiếp
vì đức tin vào Chúa Kitô và Giáo hội. Ngài được thánh hiến làm giám mục Thượng
Hải năm 1949, ngay sau khi Cộng sản chiếm Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc đã
gây áp lực buộc ngài phải trung thành với “Hiệp hội Yêu nước Công giáo Trung
Quốc”. Nhưng ngài cương quyết từ chối, ngài chọn trung thành với đường lối của
Tòa thánh. Năm 1955, chính quyền đưa ngài và 200 linh mục đến một sân vận động
ở Thượng Hải. Họ ra lệnh cho các ngài phải công khai “thú nhận tội ác của
mình.” Trái với mệnh lệnh đó, ĐHY Kung hét lên: “Chúa Kitô Vua muôn năm! Đức
Giáo hoàng muôn năm!” Ngay sau đó, ngài phải nhận bản án chung thân, và phải
ngồi tù 30 năm dài dẵng, phần lớn thời gian bị biệt giam. Khi được trả tự do
vào năm 1987, ngài đến Hoa Kỳ và định cư tại Stamford, Connecticut. Ngài được
nhận phần thưởng vĩnh cửu của mình vào ngày 12 tháng 3 năm 2000. (Cha Tony)
10. NGƯỜI GALILÊ ĐÃ CHIẾN THẮNG
Trong
số ba mươi hoàng đế La Mã, các tổng trấn và những quan chức cao cấp nhất, những
nhân vật nổi tiếng cuồng tín và nhiệt thành khi bách hại những Kitô hữu đầu
tiên, thì một người đã trở nên loạn trí; một người khác bị chính con trai mình
giết. Rồi một trong số họ bị mù; một người khác bị chết đuối. Một người bị bóp
cổ; một người khác chết trong cảnh bị giam cầm khốn khổ. Một trong số họ đã
chết vì căn bệnh ghê tởm, đến nỗi các thầy thuốc của hắn đã bị xử tử vì không
thể chịu được mùi hôi thối bao trùm căn phòng của y. Hai người tự tử; một người
khác đã cố ý tự kết liễu nhưng phải nhờ sự trợ giúp để hoàn thành ý định. Năm
người bị ám sát bởi chính người dân hoặc người hầu của họ; năm người khác chết
trong những cái chết đau khổ và dã man nhất; và tám người bị giết trong các
trận chiến, hoặc sau khi bị bắt làm tù binh. Trong số những người chết trong
trận chiến có Julianô Kẻ Bội giáo. Trong những ngày huy hoàng của đời mình, ông
được biết là đã chĩa con dao găm lên trời, thách thức Con Thiên Chúa mà ông
thường gọi là người Galilê. Nhưng khi bị thương trong một trận chiến và thấy
rằng tất cả đã kết thúc với mình, ông gom các cục máu đông lại và tung nó lên
trời và kêu lên: “Hỡi người Galilê, ngươi đã chiến thắng!” (Theo cha Boise)
11. TRUNG THÀNH VỚI ĐỨC VUA
Trong
khi chiến đấu với quân Philitinh, Đavít đã đóng quân tại một nơi gọi là hang
Adullam. Vua mệt mỏi vì phải chiến đấu không ngừng nên ông ước muốn được nếm
mùi vị của quê hương xứ sở. Đavít nói lớn ước ao của mình: “Phải chi ai đó có
thể đem cho tôi nước uống từ giếng Bêlem bên cổng thành yêu dấu!” Lập tức ba
trong số những người lính trung thành và mạnh mẽ nhất của ông đã nghe thấy vua
than thở, và tự mình đi lấy nước từ giếng đó cho ông. Điều đó có nghĩa là họ
phải liều mạng vì phải đột nhập vào trại quân Philitinh để hành động. Tuy
nhiên, khi họ mang nước về cho Đavít, ông không chịu uống. Ông biết việc lấy
nước nguy hiểm như thế nào, và ông nhận ra rằng hành động này cho thấy họ yêu
mến ông hết mực. Thay vì uống, ông đã đổ xuống đất như một lễ rưới nước dâng
lên cho Đức Chúa. Đavít đã sống niềm tin của mình đối với thuộc hạ, và cả ba
người này cũng đã đáp trả bằng lòng tin và tình yêu dành cho đức vua của họ. (x.
1 Sbn 11,15-19).
*
Còn Chúa Kitô? Người có truyền cảm hứng cho đức tin của bạn không? (Cha Tony)
12. NGƯỜI NỔI TIẾNG NHẤT
(Chuyện
vui)
Một
ngày Chúa nhật, một nữ tu dạy một lớp giáo lí gồm những đứa trẻ khoảng 9 và 10
tuổi, nói với cả lớp: “Sơ sẽ tặng 20 ngàn đồng cho em nào trả lời đúng ai là
người nổi tiếng nhất từng sống.” Một cậu bé người Ireland đưa tay lên và nói:
“Đó là thánh Patrick. “Nữ tu nói: “Xin lỗi Sean, điều đó không chính xác.” Sau
đó, một cô bé người Scotland đưa tay lên và nói: “Đó là thánh Anrê.” Nữ tu trả
lời: “Xin lỗi, Catherine, điều đó cũng không đúng.” Tiếp theo một cô bé Việt
Nam nói: “Đó là Mẹ Maria!” Nữ tu cũng lắc đầu từ chối. Cuối cùng, một cậu bé Do
Thái giơ tay nói: “Đó là Chúa Giêsu.” Nữ tu rất hài lòng nói: “Đúng vậy, Marvin,
lên đây sơ sẽ đưa cho con 20 ngàn.” Khi người nữ tu đưa tiền cho Marvin, chị ấy
nói: “Con biết đấy Marvin, con là một người Do Thái, sơ rất ngạc nhiên khi con
nói Chúa Giêsu.” Marvin trả lời: “Yeah, sơ! Trong thâm tâm, con biết đó là ông
Môisen, nhưng chuyện làm ăn là phải làm ăn thôi!…”
Linh mục Giuse Ngô Quang Trung sưu tầm
Nguồn: GP Long Xuyên